Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Tìm hiểu sự nhanh tay, nhanh chân, nhanh mắt của thị trường chuyển phát nhanh

Ông Hải cũng cho biết, đã có một số tập đoàn nước ngoài muốn hợp tác với ViettelPost nhưng chưa đi đến thỏa thuận vì ViettelPost đang muốn giữ quyền chi phối. Đòi hỏi của ViettelPost hoàn toàn có cơ sở khi hiện nay tại thị trường trong nước, ViettelPost đang có những đầu tư chiều sâu để tạo đà phát triển bền vững và đã đạt được kết quả khả quan.
Nhanh ăn người
Trong một thời gian ngắn, những tập đoàn nước ngoài DHL, TNT, FedEx và UPS đã định hình được bản đồ thị trường chuyển vận tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, hiện nay, DHL Express vẫn là DN dẫn đầu với hơn 40% thị phần. Ông Jerry Hsu, Giám đốc Điều hành DHL Express khu vực châu Á- Thái Bình Dương, tự tin cho biết:
"Trong 7, 8 năm qua, DHL đã đầu tư vào thị trường Việt Nam 25 triệu USD. Nhờ vậy, đến thời điểm này, dù có rất nhiều DN phát chuyển nhanh cùng tham gia thị trường nhưng DHL tự tin vẫn là đơn vị dẫn đầu, có lượng khách trung thành đông đảo".
Lợi thế trên hết mà DHL có được, theo chia sẻ của ông Jerry, là DHL gia nhập thị trường vào đúng thời điểm Việt Nam mở cửa năm 1988 và liên doanh với VNPT vào năm 2007, trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Chính VNPT là cửa ngõ đầu tiên để DHL Express tiến sâu vào thị trường Việt Nam.
Mặc dù năm 2012 là năm có nhiều khó khăn nhưng vẫn là năm tài chính dương của DHL với mức tăng trưởng hai con số. Đặc biệt là dịch vụ mới VNQuickpost do DHL phối hợp với VietnamPost đã mở rộng được tới 34 tỉnh, thành và phát triển rất khả quan, tỷ lệ tăng trưởng tháng sau cao hơn tháng trước từ 20-30%.
Đến Việt Nam vào năm 1994, UPS cũng nhanh chóng tìm được liên doanh với Công ty CP Chuyển phát nhanh Bưu điện Việt Nam (VNPost Express) để thành lập Công ty CP UPS Việt Nam, với vốn góp 51% của UPS và 49% của VNPost Express.
Trong năm 2012, khối lượng hàng hóa vận chuyển của UPS tại thị trường Việt Nam đã tăng hơn 20%, như chia sẻ của đại diện UPS: "Do ngay từ đầu, chiến lược của UPS là tập trung đầu tư trang thiết bị, công nghệ mới, cơ sở hạ tầng tại các trung tâm thương mại và công nghiệp trọng điểm như: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Hải Dương, Bắc Ninh và các trung tâm mới này được đặt tại những vị trí chiến lược trong khu vực kinh doanh chính, nơi có nhu cầu cao đối với các dịch vụ logistics nên UPS có nhiều lợi thế để tiếp tục phát triển vào những năm sau.
Trong 2 năm qua, UPS cũng tạo được ưu thế cạnh tranh khi đầu tư dịch vụ Preferred LCL Ocean Freight, nhanh hơn 40% so với dịch vụ LCL (dịch vụ vận chuyển hàng lẻ bằng container) truyền thống từ cảng TP.HCM tới Mỹ. Năm 2012, các giải pháp theo dõi và chuyển phát tăng cường như Internet Pickup và UPS Quantum View Manage cũng được cung cấp tại Việt Nam trên website UPS.com.
Cùng thời điểm năm 1994, FedEx Express cũng có mặt tại Việt Nam thông qua việc bắt tay với một công ty chuyển phát nhanh tư nhân. Hiện tại, Fedex đang đứng thứ hai ở Việt Nam về cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế, với thị phần khoảng 35%.
Xác định việc mở rộng dịch vụ tại Việt Nam là một phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh nên FedEx đã đưa máy bay Airbus A310 vào vận hành dịch vụ phát chuyển nhanh tại Việt Nam.
Với ưu thế này, năng suất nhận chuyển và phát của FedEx đã tăng gấp 5 lần so với trước đây, tương đương với 30 tấn/ngày. Thời gian vận chuyển từ Hà Nội cũng được rút ngắn 1 ngày so với trước.
Tuy chậm chân hơn Fedex một năm, nhưng TNT cũng nhanh chóng tìm được liên doanh với Vietrans với tên gọi TNT-Vietrans và đã đầu tư là 7 triệu Euro trong 4 năm.
TNT cũng nhanh chóng triển khai dịch vụ chuyển phát nhanh khẩn cấp TNT ở 7 quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông và Nhật Bản... thông qua việc chọn chuyến bay sẵn có sớm nhất để vận chuyển các chuyến hàng khẩn cấp từ Việt Nam đến bất kỳ thành phố chính nào ở Đông Nam Á chỉ trong vòng 6-16 giờ (bằng 1/4 thời gian vận chuyển thông thường) và dịch vụ này đã trở thành dịch vụ chủ lực mang lại lợi thế cho TNT tại Việt Nam.
Chậm người ăn
Một số DN chuyển phát nhanh có tên tuổi trong nước như Hợp Nhất, ViettelPost và VNPost... vẫn trụ được trong thị phần nội địa với mảng dịch vụ chuyển phát nhanh tài liệu, hàng hóa, bưu kiện có khối lượng nhỏ. Tuy nhiên, lợi thế này đang bị đe dọa trước sự mở rộng của các tập đoàn nước ngoài.
Theo ông Lương Ngọc Hải, Tổng giám đốc ViettelPost, trong năm 2012 và nửa đầu năm 2013, mặc dù một số DN nước ngoài tìm hiểu thị trường chuyển phát nhanh nhưng mức độ cạnh tranh trên thị trường nội địa chưa có nhiều biến động.
Tuy nhiên, khi các hãng chuyển phát nhanh toàn cầu hướng sự quan tâm, tìm cách thâm nhập vào mảng dịch vụ chuyển phát nội địa thì chắc chắn các DN trong nước sẽ gặp nhiều khó khăn, sức ép cạnh tranh sẽ vô cùng lớn.
Lãnh đạo 2 DN lớn trong ngành là VietnamPost, ViettelPost đều nhận định, dù lợi nhuận của các dịch vụ chuyển phát quốc tế cao hơn nhiều so với dịch vụ nội địa song sự tham gia của các DN nội vào chuyển phát quốc tế vẫn hạn chế.
Một khó khăn lớn của DN bưu chính trong nước là việc kết nối ra quốc tế phụ thuộc rất lớn vào 4 nhà khai thác bưu chính có mạng lưới toàn cầu gồm TNT, UPS, DHL và FedEx.
Ông Hải cũng cho biết, đã có một số tập đoàn nước ngoài muốn hợp tác với ViettelPost nhưng chưa đi đến thỏa thuận vì ViettelPost đang muốn giữ quyền chi phối. Đòi hỏi của ViettelPost hoàn toàn có cơ sở khi hiện nay tại thị trường trong nước, ViettelPost đang có những đầu tư chiều sâu để tạo đà phát triển bền vững và đã đạt được kết quả khả quan.
Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 114,57 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2011. Trong đó, riêng điện thoại di động và linh kiện, mặt hàng thường được xuất khẩu bằng đường hàng không, đã đạt kim ngạch 12,7 tỷ USD.
Cụ thể, 6 tháng đầu năm 2013, dù kinh tế rất khó khăn, nhưng doanh thu dịch vụ lõi là chuyển phát nhanh của Viettel vẫn tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện mạng lưới dịch vụ của Viettel Post đã có mặt tại 98% các huyện (trừ huyện đảo), 85% các xã trên cả nước.
Đối với thị trường nước ngoài, vào năm 2009, Viettel Post đã mở rộng mạng lưới kinh doanh dịch vụ sang Campuchia và trở thành doanh nghiệp bưu chính đầu tiên của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Hiện mạng lưới của Viettel Post đã có mặt trên 23/23 tỉnh, thành phố của Campuchia.
"Dù tại các thị trường nước ngoài, Viettel Post sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn như DHL và Fedex, nhưng chúng tôi sẽ có cách đi của riêng mình. Nếu như các công ty này thường triển khai các dịch vụ qua trung gian tại nước ngoài, thì chúng tôi sẽ đầu tư trực tiếp. Chúng tôi cũng sẽ phối hợp với các dự án đầu tư và các chương trình xã hội của Tập đoàn Viettel tại nước ngoài", ông Hải cho biết.
Mới đây, đại hội cổ đông bất thường của Công ty CP Chuyển phát nhanh Tín Thành (TTC Express) cũng đã thông qua phương án chuyển nhượng 70% cổ phần của các cổ đông lớn cho 3 nhà đầu tư gồm: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Gia Lý, Công ty KLN (Singapore) PTE.,LTD và Công ty CP Kerry Intergrated Logistics (Hồng Kông).
Tín Thành đang hoàn thiện thủ tục pháp lý để hợp thức hóa chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông lớn cho những nhà đầu tư chiến lược này. Như vậy, sau 13 năm hoạt động trong lĩnh vực chuyển phát nhanh, Tín Thành đã có thương hiệu mới là Kerry TTC Express, chính thức trở thành một trong những DN chuyển phát có vốn đầu tư nước ngoài.
Mặc dù dư luận tiếc cho Tín Thành vì bị các cổ đông nước ngoài nắm giữ 70% cổ phần và nắm quyền chi phối, nhưng Ban lãnh đạo công ty này vẫn cho rằng, khi hợp tác với đối tác nước ngoài, Tín Thành tăng năng lực cạnh tranh, phát triển ổn định và quan trọng nhất là học tập được kinh nghiệm và cách làm của họ nhằm mục đích đưa DN trở thành nhà khai thác bưu chính, chuyển phát chuyên nghiệp, đội ngũ gần 2.000 nhân viên Công ty sẽ có được phong cách làm chuyên nghiệp, bài bản.
Trước đó, VietnamPost cũng đã tách ra hoạt động độc lập với viễn thông và đã tự thân vận động để tìm đường đi riêng, giữ chân khách hàng hiện có, đồng thời gia tăng thêm khách hàng mới. Đến năm 2011 VietnamPost đã đạt được lợi nhuận 32,5 tỷ đồng, trong khi năm 2010 lỗ gần 350 tỷ đồng.
Đặc biệt, việc Vietnam Post chọn hợp tác với DHL Express trong dịch vụ chuyển phát nhanh VNQuickpost nhằm kết hợp lợi thế về hệ thống giao dịch rộng khắp của Vietnam Post và chất lượng mạng chuyển phát phủ rộng toàn cầu của DHL Express đã giúp hai bên mở rộng tiếp cận đến phân khúc khách hàng tầm trung với giá cước ở khoảng giữa của dịch vụ chuyển phát nhanh EMS của Vietnam Post và dịch vụ chuyển phát quốc tế của DHL Express.
Trên cơ sở đó, sẽ có mức tăng trưởng doanh thu bình quân 14%, lợi nhuận tăng trung bình 52% và năng suất lao động tăng 16%/năm.

Vì sao IBM lại loạng choạng?

Nhưng mặc dù IBM đã kiếm được hơn 1 tỉ USD doanh thu từ bộ phận các dịch vụ điện toán đám mây trong quý III/2013, con số này chẳng là gì so với tổng doanh thu quý III gần 24 tỉ USD. Nghĩa là IBM cần phải đẩy nhanh cuộc tiến quân vào điện toán đám mây để gia tăng mạnh doanh thu ở mảng này. Giữa lúc đó, Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) lại đang tiến hành cuộc điều tra đối với tình hình tài chính của bộ phận các dịch vụ điện toán đám mây của tập đoàn này.
IBM được nhắc đến như một gã khổng lồ biết chuyển mình kịp thời, nhưng… vẫn còn loạng choạng.
Các quý tới sẽ tiếp tục rất khó khăn đối với IBM khi niềm tin đối với tập đoàn đang ở mức rất thấp.
Ngày nay, câu chuyện lội ngược dòng thần kỳ của IBM sang lĩnh vực phần mềm và các dịch vụ có biên lợi nhuận cao hơn đã bị lu mờ bởi sự sa sút trong mảng phần cứng. Đã vậy, các thị trường mới nổi đang tăng trưởng nhanh, vốn đóng góp tăng trưởng phần lớn doanh thu của IBM trong những năm qua, giờ cũng đang chững lại, hầu như không cho thấy sự tăng trưởng nào trong 6 quý vừa qua.
Chuyển mình thần tốc
International Business Machines (IBM) từng được xem là câu chuyện lội ngược dòng ngoạn mục nhất trong lịch sử của ngành công nghệ. Khoảng thập niên 1960 – 1970, IBM đã trở thành nhà sản xuất máy tính lớn nhất thế giới nhờ vào dòng máy tính cỡ lớn gọi là mainframe.
Nhưng vào những năm 1980, máy tính cá nhân và máy chủ server đã dần thống lĩnh thị trường, khiến mainframe bị thất sủng. IBM bắt đầu chới với.
Lúc đó, Tổng Giám đốc Louis Gerstner đã nhanh chóng ổn định hoạt động và tái cấu trúc tập đoàn theo hướng tập trung vào mảng tích hợp hệ thống và các dịch vụ đi kèm. Đến thời của Tổng Giám đốc Sam Palmisano, ông đã đưa IBM lên một nấc thang cao hơn khi dẫn dắt tập đoàn tiến vào các thị trường mới có biên lợi nhuận cao như siêu máy tính và phân tích, trở thành nhà cung cấp các dịch vụ công nghệ lớn nhất thế giới.
Năm 2011, doanh thu của IBM đã vượt 107 tỉ USD. Sự chuyển mình thần tốc của IBM đã đưa tập đoàn này trở thành con cưng của nhà đầu tư và giới phân tích.
Trong 5 năm qua IBM đã tăng được lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) trung bình 16%/năm. Con số này cao hơn nhiều so với mức trung bình 4% của thị trường trong cùng thời kỳ – theo hãng môi giới Cantor Fitzgerald. Suốt giai đoạn khủng hoảng, trong khi hầu hết công ty công nghệ chứng kiến lợi nhuận giảm mạnh thì IBM đã tăng EPS tới 23% trong năm 2008 và 13% năm 2009.
Chững lại
Nhưng ngày nay, câu chuyện lội ngược dòng thần kỳ của IBM sang lĩnh vực phần mềm và các dịch vụ có biên lợi nhuận cao hơn đã bị lu mờ bởi sự sa sút trong mảng phần cứng. Ngày 16/10 vừa qua, ban lãnh đạo IBM thừa nhận, doanh số bán đã giảm trong quý thứ 6 liên tiếp và bộ phận phần cứng của tập đoàn đã bị thua lỗ.
Cụ thể, trong 9 tháng đầu năm nay, tập đoàn đã lỗ 713 triệu USD trong mảng phần cứng, so với mức lãi 253 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. Doanh số bán của bộ phận phần cứng đã giảm tới 17% trong quý III vừa qua. Đã vậy, các thị trường mới nổi đang tăng trưởng nhanh, vốn đóng góp tăng trưởng phần lớn doanh thu của IBM trong những năm qua, giờ cũng đang chững lại.
Bộ phận các thị trường mới nổi hầu như không cho thấy sự tăng trưởng nào trong 6 quý vừa qua. Trong quý III vừa rồi, doanh số bán của các thị trường mới nổi đã giảm 9%.
Trong đó, doanh số bán tại thị trường Trung Quốc giảm tới hơn 20%. Cổ phiếu của tập đoàn vốn có sức ảnh hưởng lớn thứ 2 trong số 30 thành viên thuộc chỉ số công nghiệp Dow Jones, đã giảm 6% vào ngày 17/6 và trên đà giảm từ đầu năm đến nay so với mức tăng 20% của thị trường.
“Thay đổi mô hình của bộ phận phần cứng bấy lâu nay là một thách thức của IBM. Giờ đây, bộ phận các thị trường tăng trưởng cũng bất ngờ đi xuống”, Chris Ambrose, chuyên gia phân tích tại hãng nghiên cứu thị trường Gartner nhận xét.
Ginni Rometty, người đảm nhiệm vị trí CEO thay cho Palmisano hồi tháng 1/2012, cũng thấy rõ thách thức này của IBM. “Chúng tôi đang bắt tay hành động để cải thiện hoạt động tại bộ phận các thị trường mới nổi và bộ phận phần cứng, vốn đang hoạt động kém hiệu quả”, bà nói.
Để giải quyết những thách thức nói trên, IBM đang cố thoát khỏi mảng phần cứng và bành trướng mạnh hơn vào các lĩnh vực có liên quan đến phần mềm có biên lợi nhuận cao hơn. IBM đã tìm cách bán đi một phần của bộ phận máy chủ cho Lenovo Group (Công ty Trung Quốc này từng mua lại bộ phận máy tính cá nhân của IBM vào năm 2005), nhưng cuộc thương lượng đã đi vào bế tắc vào đầu tháng 5 do không thỏa thuận được giá cả – theo một nguồn tin thân cận với vụ việc tiết lộ vào thời điểm đó. IBM đã bán thành công mảng dịch vụ khách hàng cho Synnex với giá 505 triệu USD vào hồi tháng 9.
Hy vọng từ đám mây
Trước đó vào tháng 7, IBM đã trả gần 2 tỉ USD mua lại SoftLayer Technologies – một nhà cung cấp các giải pháp điện toán đám mây, để có thể cạnh tranh với các đối thủ như Amazon.com. Các dịch vụ điện toán đám mây là mảng được IBM kỳ vọng bù đắp được cho sự sa sút ở bộ phận phần cứng và một số mảng khác.
Nhưng mặc dù IBM đã kiếm được hơn 1 tỉ USD doanh thu từ bộ phận các dịch vụ điện toán đám mây trong quý III/2013, con số này chẳng là gì so với tổng doanh thu quý III gần 24 tỉ USD. Nghĩa là IBM cần phải đẩy nhanh cuộc tiến quân vào điện toán đám mây để gia tăng mạnh doanh thu ở mảng này. Giữa lúc đó, Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) lại đang tiến hành cuộc điều tra đối với tình hình tài chính của bộ phận các dịch vụ điện toán đám mây của tập đoàn này.
Quả là khó chồng thêm khó. Thế nhưng, mặc cho những thách thức này, giữa tháng 10/2013 IBM tuyên bố vẫn giữ nguyên mục tiêu EPS đặt ra đến năm 2015 là 20 USD/cổ phiếu, tăng từ mức 15,25 USD/cổ phiếu của năm 2012.
Hồi cuối tháng 4 IBM cho biết, sẽ bỏ ra thêm 5 tỉ USD để mua lại cổ phiếu quỹ. Như vậy, số tiền bỏ ra mua lại cổ phiếu quỹ đã được nâng lên con số 11,2 tỉ USD. Việc mua lại cổ phiếu quỹ sẽ giúp làm gia tăng EPS của IBM.
Thế nhưng, lấy lại niềm tin của nhà đầu tư và giới phân tích vào năng lực tạo ra lợi nhuận của IBM sẽ là chuyện không dễ. “Chúng ta không thể phớt lờ kết quả kém cỏi dù là trong ngắn hạn này, cũng như những mối hoài nghi về năng lực tạo ra lợi nhuận trong tương lai của IBM”, chuyên gia phân tích Steve Milunovich thuộc Ngân hàng Thụy Sĩ UBS nhận xét.
Ông đã hạ bậc cổ phiếu IBM từ mức “nên mua” xuống mức khuyến nghị “trung lập” và giảm dự đoán giá cổ phiếu từ 235 USD xuống còn 186 USD/cổ phiếu (cổ phiếu IBM được giao dịch ở mức 174,83 USD/cổ phiếu vào ngày 17/6).
“Thông thường chúng ta sẽ chờ xem, sau kết quả kém lạc quan này doanh nghiệp có làm được cuộc quay đầu hay không? Nhưng lần này có quá nhiều câu hỏi và mối nghi ngờ đặt ra cho IBM. Các quý tới sẽ tiếp tục rất khó khăn đối với IBM và niềm tin đối với tập đoàn này hiện đang ở mức rất thấp”, ông Milunovich nói thêm.

Sự hấp dẫn từ Việt Nam đối với đối tác Nhật Bản

Trong khi thị trường phần mềm Nhật Bản chi tiêu lên tới 130 tỷ USD mỗi năm, lớn thứ hai thế giới và xu hướng thuê gia công ngoài đã tăng gần 5 lần kể từ 2002, do đó tạo cơ hội lớn cho các đối tác cung cấp từ nước ngoài. Với 10 năm thâm nhập thị trường khó tính này, các DN Việt đang dần có chỗ đứng ở thị trường này khi mà DN Nhật cũng đang tìm những đối tác mới ngoài Trung Quốc.
Hàng Việt Nam tại siêu thị ở Tokyo. Ảnh: N.T
Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Nhật 9 tháng đầu năm đạt 9,87 tỷ USD, chiếm gần 10,25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước, và nhập khẩu hàng hóa từ Nhật trị giá 8,45tỷ USD. Như vậy xuất siêu của Việt Nam sang Nhật đạt 1,42 tỷ USD.
Hàng hóa của Việt Nam xuất sang Nhật rất đa dạng, phong phú, rất nhiều nhóm hàng đạt kim ngạch từ 100 triệu USD trở lên, trong đó có 3 nhóm hàng dẫn đầu về kim ngạch với mức trên tỷ USD, đó là hàng dệt may 1,74 tỷ USD, dầu thô 1,51 tỷ USD, phương tiện vận tải, phụ tùng 1,35 tỷ USD.
Cơ quan Xúc tiến Công nghệ thông tin Nhật Bản (IPA) vừa công bố lượng đơn hàng của quốc gia này với các đối tác. Trong đó, Việt Nam đã vượt lên trên Ấn Độ (13,7%) trở thành đối tác lớn thứ hai của Nhật Bản với 23% lượng đơn đặt hàng hải ngoại trong năm 2012.
Song, số lượng đơn hàng các doanh nghiệp Nhật Bản dành cho Việt Nam mới chỉ dừng ở mức khiêm tốn. Theo số liệu từ Bộ Kinh tế Nhật Bản, tổng số đơn hàng của Việt Nam chỉ bằng 1/30 so với đối tác Trung Quốc.
Cuối năm 2012, đầu năm 2013, các doanh nghiệp (DN) Nhật Bản tạo nên một làn sóng tìm kiếm đối tác tại khu vực Đông Nam Á, trong đó Việt Nam nổi lên như một điểm đến hấp dẫn. Ngoài ra, kể từ 2009, Việt Nam luôn giữ vững vị trí là đối tác được ưa thích nhất của các DN Nhật Bản với 31,5% số phiếu bình chọn của DN Nhật (Ấn Độ là 20,6% và Trung Quốc là 16,7%).
Với lợi thế về giá thành, trình độ nhân lực cao và những ưu đãi về thuế, Việt Nam đã thu hút được gần 80 công ty liên quan đến công nghệ thông tin của Nhật Bản tới đầu tư và chiếm tới 19,2% ứng dụng phần mềm phát triển tại nước ngoài của các công ty Nhật. Dự kiến đến cuối năm nay, sẽ có thêm 20 công ty Nhật tiếp tục vào đầu tư.
Trong khi thị trường phần mềm Nhật Bản chi tiêu lên tới 130 tỷ USD mỗi năm, lớn thứ hai thế giới và xu hướng thuê gia công ngoài đã tăng gần 5 lần kể từ 2002, do đó tạo cơ hội lớn cho các đối tác cung cấp từ nước ngoài. Với 10 năm thâm nhập thị trường khó tính này, các DN Việt đang dần có chỗ đứng ở thị trường này khi mà DN Nhật cũng đang tìm những đối tác mới ngoài Trung Quốc.
Trong khi đó, theo Vụ Lữ hành thuộc Tổng cục Du lịch, Ban điều hành của Hiệp hội Lữ hành Nhật Bản (JATA) đã họp tại Việt Nam và đi khảo sát một số điểm đến. Đây là lần đầu tiên JATA họp ban điều hành ở nước ngoài và đã chọn Việt Nam làm điểm đến để đề ra một số kế hoạch lớn nhằm phát triển thị trường.
Điều này rất quan trọng vì JATA tập hợp những DN du lịch hàng đầu của Nhật Bản, quyết định đến việc tăng trưởng của thị trường. Theo Vụ Lữ hành, JATA đã định hướng Việt Nam là thị trường trọng điểm và sang năm sẽ kết nối đường bay đến Đà Nẵng, Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế để đưa khách Nhật sang nghỉ dưỡng.
Cũng cùng thời điểm này, Ủy ban Hợp tác Du lịch Việt Nam - Nhật Bản cũng nhóm họp tại Việt Nam, khẳng định việc hợp tác thúc đẩy du lịch giữa hai nước, xác định Việt Nam là thị trường quan trọng để đưa khách Nhật đi du lịch...
Phía Việt Nam mong muốn sẽ thu hút một triệu lượt khách Nhật vào năm 2015 so với gần 600.000 lượt của năm 2012. Phía Nhật Bản cũng hy vọng sẽ có 200.000 lượt khách vào năm đó, so với khoảng 55.000 trong năm ngoái.
Cùng với những tín hiệu tích cực từ JATA, doanh nghiệp du lịch và hàng không của Việt Nam cũng đang thực hiện nhiều hoạt động để thu hút du khách từ Nhật Bản.
Vietnam Airlines đang cùng một số DN du lịch khai thác thị trường Nhật chuẩn bị một số hoạt động xúc tiến thị trường. Vào năm tới, du khách từ Tokyo cũng sẽ tiện lợi hơn rất nhiều để sang Việt Nam khi máy bay của Vietnam Airlines có thể hạ cánh sân bay Haneda ở thủ đô Tokyo.

Khám phá về thị trường thẻ: Đấu trường mở POS

Số liệu của Visa cho thấy, có 13 ngân hàng tại Việt Nam phát hành Visa Debit, Visa Credit và Visa Prepaid và Visa Prepaid Gift và Visa đồng thương hiệu cho du lịch và bán lẻ, chẳng hạn như Việt Nam Airlines Techcombank, Sacombank Parkson, thẻ Eximbank Maximark... Còn MasterCard hiện hợp tác với 26 ngân hàng tại Việt Nam, trong đó Vietcombank là đối tác lớn nhất.
Tỷ lệ POS tại Việt Nam là 1 POS/1.000
MasterCard mới bổ nhiệm ông Arn Vogels làm Giám đốc khu vực Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia). Giải thích về nhiệm vụ và cơ hội của mình tại thị trường Việt Nam, ông cho biết: "Thị trường thẻ Việt Nam đang tăng trưởng cao nhất khu vực".
Các con số của MasterCard cho biết cụ thể hơn về sự tăng trưởng này: Mức tăng trưởng bình quân của MasterCard tại Việt Nam đạt gần 50%/năm về số lượng phát hành thẻ tín dụng và tăng hơn 40% về số tiền chi tiêu trên thẻ.
Khoảng 90% giao dịch tại Việt Nam vẫn được thanh toán bằng tiền mặt nên tiềm năng và cơ hội để đẩy mạnh dịch vụ phát triển thẻ tín dụng còn rất cao.
Trong khi đó, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đã có 52 ngân hàng thương mại trong nước và ngân hàng có vốn nước ngoài đăng ký phát hành thẻ, với trên 57,1 triệu thẻ các loại đã được phát hành, tăng 38,5% so với cuối năm 2011.
Trong đó, hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm 93,6%), thẻ tín dụng (chiếm 3,1%). Tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác đang có xu hướng tăng.
Cùng với MasterCard, các nhà cung cấp giải pháp công nghệ trong thị trường thẻ thế giới đều đã xuất hiện tại Việt Nam, như VisaCard, American Express và UnionPay, tạo ra sự cạnh tranh phát hành thẻ rất quyết liệt.
Thống kê của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho thấy, trong số 10 dịch vụ mới nhất trên thị trường có 8 sản phẩm là thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Riêng thẻ quốc tế Visa phát hành tại Việt Nam đạt con số hơn 1 triệu thẻ.
Số liệu của Visa cho thấy, có 13 ngân hàng tại Việt Nam phát hành Visa Debit, Visa Credit và Visa Prepaid và Visa Prepaid Gift và Visa đồng thương hiệu cho du lịch và bán lẻ, chẳng hạn như Việt Nam Airlines Techcombank, Sacombank Parkson, thẻ Eximbank Maximark... Còn MasterCard hiện hợp tác với 26 ngân hàng tại Việt Nam, trong đó Vietcombank là đối tác lớn nhất.
Kéo theo cuộc đua này, các ngân hàng nước ngoài như HSBC, Citibank, Standard Chartered hay ANZ đẩy nhanh những chương trình cạnh tranh rất quyết liệt để phát hành thẻ như miễn phí phát hành, giảm giá ưu đãi mua sắm cho chủ thẻ, hoàn lại một phần tiền chi tiêu cho khách hàng...
Các ngân hàng trong nước như Vietcombank, ACB, Eximbank và Đông Á cũng có các chương trình phát hành thẻ tương tự.
Theo báo cáo mới phát hành gần đây của RNCOS, thị trường thẻ Việt Nam tăng trưởng khoảng 18,5% trong khoảng 2011 - 2014. Tính đến cuối năm 2011, tổng giá trị giao dịch của các loại thẻ tại thị trường Việt Nam lên đến 32 tỷ USD, nhưng giao dịch rút tiền vẫn còn lớn, chiếm hơn 80%.
Theo ông Arn Vogels, thách thức của các ngân hàng tại Việt Nam trong việc phát triển thẻ tín dụng nói riêng cũng như thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt nói chung là hệ thống chấp nhận thẻ còn hạn chế, gây khó khăn cho chủ thẻ khi sử dụng hằng ngày.
Hệ thống máy chấp nhập thẻ tín dụng (POS) của Việt Nam, hiện đang ở mức thấp nhất thế giới. Ước tính tại Việt Nam chỉ có 1 POS/1.000 người, trong khi tại Hàn Quốc tỷ lệ này là 50 POS/1.000 người.
Tỷ lệ mở tài khoản tại ngân hàng của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với chuẩn quốc tế (mới có khoảng 6% số người có tài khoản tại ngân hàng), trong khi đó tại một số nước trong khu vực như Singapore tỷ lệ người sử dụng thẻ tín dụng chiếm 95%, Malaysia 55% và Thái Lan khoảng 46%.
Các công ty thẻ có những mục tiêu khác nhau. Chẳng hạn như Visa, MasterCard và UnionPay cung cấp giải pháp quản lý tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước do các thành viên phát hành, trong khi American Express phát hành thẻ riêng.
Theo Nilson Report, năm ngoái, trên thế giới, khoảng 6,7 ngàn tỷ USD được chuyển qua hệ thống thẻ thanh tóan, trong đó thẻ ghi nợ và thẻ trả trước là 15 ngàn tỷ USD.
Theo Master Card châu Á-Thái Bình Dương, với số lượng người sử dụng điện thoại di động và internet ngày càng nhiều thì nên tập trung phát triển giải pháp thanh toán di động.
Công ty này áp dụng thành công giải pháp M-POS di động, chi phí khoảng 50USD so với chi phí cho một máy POS khoảng 600 USD. Trao đổi với DNSG, ông Arn Vogels cũng cho biết, M-POS cũng là một trong các giải pháp di động mà MasterCard đã áp dụng thành công ở các thị trường có sự hạn chế về điểm chấp nhận thẻ như Việt Nam, cụ thể là Nigeria và Kenya.
Ngoài các biện pháp về công nghệ như trên, MasterCard cũng đang phối hợp với Chính phủ Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á đưa ra các quy định về dùng thẻ thanh toán, hợp tác với các ngân hàng đẩy mạnh các điểm chấp nhận thẻ có các ưu đãi khi khách hàng mở và dùng thẻ. Trong thời gian tới, để khuyến khích người dân Việt Nam mở và sử dụng thẻ, MasterCard dự kiến đưa ra các chương trình khuyến mại riêng.

Ngoại độc diễn, nội co cụm của thị trường logistics

Thậm chí, nhiều DN còn cung ứng dịch vụ logistics bên thứ năm (5PL): cung cấp hệ thống thông tin tích hợp để đảm bảo dòng thông tin liên tục và tăng khả năng kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng. Trong khi đó, các DN trong nước chỉ có thể thực hiện một hai công đoạn trong chuỗi cung ứng và không gắn kết được với DN xuất khẩu không thể cạnh tranh với DN ngoại.
Cú hích của DHL
Thị trường logistics Việt Nam từ lâu được xem là nơi độc diễn của DN nước ngoài nay lại càng khó khăn hơn cho các DN trong nước khi các DN ngoại liên tiếp mở rộng đầu tư. Bằng chứng là giữa năm nay, DHL Supply Chain (thuộc Tập đoàn Deutsche Post DHL) đã đầu tư gần 13 triệu USD để mở rộng hoạt động.
Trong đó, DHL Supply Chain đưa vào hoạt động trung tâm phân phối thứ hai có diện tích 10.000m2 tại tỉnh Bắc Ninh, tăng diện tích kho bãi từ 91.000m2 hiện nay lên hơn 141.000mvà phát triển đội xe lên 100 chiếc vào năm 2015.
Cùng với kho bãi, DHL Supply Chain dự kiến sẽ tăng số lượng nhân viên hơn 170%, tạo ra 1.400 việc làm mới. Đến năm 2015, Công ty sẽ có hơn 2.200 nhân viên tại Việt Nam.
Ông Oscar De Bok, Giám đốc Điều hành DHL Supply Chain khu vực phía Nam và Đông Nam Á, cho biết, sự chuẩn bị này nhằm vào lĩnh vực bán lẻ, hàng tiêu dùng, công nghệ và ô tô tại thị trường Việt Nam, những ngành hàng được dự báo sẽ phát triển mạnh trong những năm tới.
Không chỉ có DHL Sypply Chain, trước đó, nhiều hãng logistics lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam như: Maersk Logistics, APL Logistics có NYK Logistics, MOL Logistics... cũng tăng cường đầu tư, mở rộng hoạt động.
Trong đó, Maersk Line, đơn vị vận tải biển chủ lực của Tập đoàn A.P. Moller - Maersk năm 2010 cũng đã xây thêm bốn kho hàng. Năm 2014, lộ trình mở cửa hoàn toàn cho thị trường logistics đang khiến việc đầu tư của các tập đoàn nước ngoài càng thêm sôi động.
Thị trường Việt Nam hiện đang rất hấp dẫn các công ty logistics hàng đầu thế giới. Bởi, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam được nhiều DN nước ngoài lựa chọn đầu tư. Ông Oscar De Bok, cho biết, khu vực châu Á - Thái Bình Dương là động lực tăng trưởng cho nền kinh tế toàn cầu nên DHL Supply Chain đang đầu tư đón đầu sự tăng trưởng này.
Trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn ngành đạt 25%/năm thì DHL Supply Chain (bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001) đã đạt mức tăng trưởng tới 45%/năm và đang dẫn đầu thị trường logistics về bán lẻ, công nghệ và hàng tiêu dùng.
Tương tự thế, Maersk Line cũng đã tăng trưởng kinh doanh hơn 200% (từ năm 2005 đến 2010) trong lĩnh vực vận tải biển container.
Vệ tinh cho nước ngoài
Theo Bộ Công Thương, dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm từ 15 - 20% GDP, đạt khoảng 12 tỷ USD/năm, gắn với toàn bộ khâu lưu thông, phân phối của nền kinh tế.
Ông Luis Blancas, chuyên gia giao thông của Ngân hàng Thế giới (World Bank), cho rằng, logistics sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng bền vững trong tương lai nhưng hiện nay các DN Việt Nam khó cạnh tranh với các tập đoàn toàn cầu. Trong gần 1.000 DN hoạt động thì chỉ có 25 công ty nước ngoài, nhưng điều đáng nói là họ nắm giữ phần lớn "miếng bánh logistics".
12 tỷ USD
Theo Bộ Công Thương, dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm từ 15 - 20% GDP, đạt khoảng 12 tỷ USD/năm
Ngoại trừ một vài DN như Vinafco, các DN Việt đa phần là DN có quy mô nhỏ, chỉ có thể cung cấp các dịch vụ có giá trị gia tăng thấp như khai báo hải quan, vận chuyển hàng hóa bằng xe tải hoặc container và làm vệ tinh cho DN nước ngoài.
Mặc dù, World Bank đã xếp Việt Nam đứng thứ 53/155 về chỉ số năng lực ngành logistics (LPI) và xếp thứ 5 trong ASEAN, qua mặt Indonesia về LPI (Indonesia thứ 59) nhưng năng lực này cũng "nhờ" vào nhà đầu tư ngoại.
Hiện các DN nước ngoài đã tiến đến đáp ứng dịch vụ logistics bên thứ tư (4PL), gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics.
Thậm chí, nhiều DN còn cung ứng dịch vụ logistics bên thứ năm (5PL): cung cấp hệ thống thông tin tích hợp để đảm bảo dòng thông tin liên tục và tăng khả năng kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng. Trong khi đó, các DN trong nước chỉ có thể thực hiện một hai công đoạn trong chuỗi cung ứng và không gắn kết được với DN xuất khẩu không thể cạnh tranh với DN ngoại.
Điều ghi nhận nhất hiện nay là một số DN Việt Nam đã bắt đầu đầu tư công nghệ quản trị hiện đại về chuỗi cung ứng, như hệ thống kho phân phối, cảng cạn (ICD), hệ thống gom hàng container (CFS), các ga hàng hóa hiện đại tại các TCS, SCSC (sân bay Tân Sơn Nhất) và NTSC, ACS (sân bay Nội Bài) nhưng số này chưa nhiều.
Ông Đỗ Xuân Quang, Chủ tịch Hiệp hội DN Logistics Việt Nam (VLA), cho rằng, một bất lợi rất lớn cho các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam là thói quen "bán giá FOB và mua giá CIF" đã khiến các hãng tàu, hãng hàng không Việt Nam bị mất lợi thế sân nhà.
"Tổng giá trị của thị trường vận tải hàng hóa hàng không Việt Nam đạt khoảng 700 triệu USD nhưng các DN Việt Nam chỉ chiếm khoảng 22%", ông Quang cho biết.

Tìm hiểu câu chuyện doanh nghiệp xuất nhập khẩu khốn khổ với quy định mới

Cũng gặp phải khó khăn này, ông Vinh, đại diện Công ty cổ phần may Tiền Tiến, cho hay, hiện tại tất cả hàng hóa đại lý giao nhận của công ty đều nằm ở TP HCM. Nếu được thông quan qua cảng TP HCM như trước đây thì rất nhanh, nhưng nay mang về tỉnh Tiền Giang khai rồi phải chuyển hồ sơ lên TP HCM mới được thông quan hàng hóa. Điều này chẳng khác nào vòng luẩn quẩn làm chậm tiến độ sản xuất. Trong khi đó, các đơn hàng FOB đòi hỏi tiến độ giao hàng của công ty phải đảm bảo, nếu chậm đối tác có thể sẽ hủy bỏ đơn hàng.
Hàng ùn ứ Hải quan và các cơ quan chuyên ngành không có kho bãi nhưng lại buộc doanh nghiệp nhập khẩu phải tập kết hàng tại đây ít nhất 10 ngày.
Thông tư 128 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu lực từ 1/11 đã khiến nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cả cơ quan làm thủ tục thông quan lúng túng.
Theo đó, điều 27 (điểm mới của thông tư này) quy định, các doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận kiểm định của cơ quan chuyên ngành, sau đó mới được thông quan chuyển hàng ra khỏi cảng. Nếu việc kiểm tra không thể thực hiện tại cửa khẩu, phải đưa về công trình, nhà máy, kho của doanh nghiệp hoặc cơ quan kiểm tra thì cơ quan chuyên ngành phải có văn bản đề nghị hải quan cho phép và chịu trách nhiệm giám sát, quản lý hàng hóa cho đến khi được hải quan xác nhận thông quan.
Đại diện một công ty xuất nhập khẩu thủy sản ở tỉnh Bình Dương cho hay, quy định trên một tuần nay đã làm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị ngưng trệ. Vì việc chờ kết quả kiểm định của cơ quan chuyên ngành mất ít nhất 10 ngày. Trong khi cả 2 cơ quan quản lý trên đều không có kho bãi, nên hàng của doanh nghiệp này vẫn nằm tại cảng không tiêu thụ được.
“Sang tuần nếu hải quan tháo gỡ được khó khăn chúng tôi mới có thể sản xuất lại”, đại diện công ty này cho hay.
Theo ghi nhận của VnExpress.net, không chỉ doanh nghiệp thủy sản mà một số doanh nghiệp muối, dụng cụ y tế, thức ăn chăn nuôi, phân bón cũng gặp phải hoàn cảnh tương tự. Hàng hóa nhập về cảng Cát Lái và cảng ICD (quận Thủ Đức) dễ hư hỏng do phải chờ kiểm tra chuyên ngành, chưa kể chi phí lưu kho bãi lớn phát sinh.
Khoản 1, điều 36 của thông tư này cũng khiến nhiều doanh nghiệp địa phương lao đao.
Cụ thể, doanh nghiệp có cơ sở sản xuất tại địa phương nào thì khai báo hải quan tại địa phương đó, trong khi trước đây có thể khai báo hải quan tại nơi thuận tiện nhất. Điều này khiến chi phí cũng như thời gian làm thủ tục của một số doanh nghiệp khó khăn. Bởi có nhiều địa phương điều kiện bến bãi và dịch vụ vận tải quốc tế tại địa phương không có hay chưa đáp ứng được nhu cầu tiết kiệm chi phí đối với doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Văn Kha, đại diện Công ty cổ phần Tổng công ty may Đồng Nai, cho hay, công ty có cơ sở sản xuất tại nhiều tỉnh thành, hàng nhập và xuất khẩu đều qua các cảng, sân bay, chuyển phát nhanh quốc tế tại TP HCM. Tuy nhiên, theo khoản 1, điều 36 Thông tư 128/2013/TT-BTC, công ty chỉ được khai thủ tục hải quan tại nơi có cơ sở sản xuất chứ không được khai ở TP HCM như trước đây. Điều này khiến doanh nghiệp phải tăng chi phí và thời gian chờ đợi, trong khi nguyên vật liệu cần cung cấp nhanh và liên tục cho sản xuất.
Ông Kha đưa ra dẫn chứng, nếu được khai báo tại hải quan TP HCM như trước đây thì chỉ mất một ngày là xong, nếu sai sót có thể lên 3 ngày. Hiện nay, dù bộ phận chuyên trách làm thủ tục cố gắng nhanh nhất cũng mất 3 ngày để hàng có thể về Đồng Nai bổ sung cho sản xuất và có thể tới một tuần (nếu có trục trặc về khai báo, chứng từ khách hàng).
“Tình trạng lưu kho, lưu bãi gia tăng do thời gian luân chuyển công văn, chứng từ hải quan kéo dài. Chi phí vận tải, giao nhận chứng từ nội địa, nhân sự tăng cao. Ngoài ra, hàng còn về nhiều cảng khác tại TP HCM chứ không phải chỉ về một cảng duy nhất”, ông Kha cho biết thêm.
Cũng gặp phải khó khăn này, ông Vinh, đại diện Công ty cổ phần may Tiền Tiến, cho hay, hiện tại tất cả hàng hóa đại lý giao nhận của công ty đều nằm ở TP HCM. Nếu được thông quan qua cảng TP HCM như trước đây thì rất nhanh, nhưng nay mang về tỉnh Tiền Giang khai rồi phải chuyển hồ sơ lên TP HCM mới được thông quan hàng hóa. Điều này chẳng khác nào vòng luẩn quẩn làm chậm tiến độ sản xuất. Trong khi đó, các đơn hàng FOB đòi hỏi tiến độ giao hàng của công ty phải đảm bảo, nếu chậm đối tác có thể sẽ hủy bỏ đơn hàng.
Đại diện doanh nghiệp chuyên chế biến và xuất khẩu thủy hải sản tại Đồng Tháp cho biết, gần 5 container hàng của công ty đang nằm lại Tân Cảng, Cát Lái chờ giấy kiểm định của cơ quan chất lượng. Ngoài ra, công ty còn phải “chạy đôn chạy đáo” làm thủ tục thông quan ở dưới tỉnh nhưng cho đến thời điểm này đã một tuần nhưng chưa được thông quan. Công ty cũng đã đệ đơn nên Tổng cục Hải quan và Bộ Tài chính kiến nghị nhưng vẫn chưa thấy câu trả lời.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Nguyễn Hữu Nghiệp, Phó cục trưởng Cục Hải quan TP HCM cho hay, hiện chưa có thống kê cụ thể số lượng hàng hóa tồn tại các cửa khẩu chờ kiểm tra chuyên ngành nhưng cũng đã gây ùn ứ tại cảng. Để đảm bảo các sản phẩm kém chất lượng không tuồn lậu ra thị trường, Cục Hải quan phải giám sát chặt chẽ. Trước đây có doanh nghiệp nhập 10.000 phích (bình thủy) điện, cơ quan quản lý chuyên ngành cho mang về kho riêng nên hải quan giải quyết cho mang ra nhưng chưa kịp kiểm tra thì hàng đã bán hết ra thị trường. "Nếu sản phẩm kém chất lượng sẽ gây hại cho người tiêu dùng, khi đó cơ quan quản lý là đơn vị có lỗi", ông nói.
Trước những vướng mắc của doanh nghiệp tại thông tư 128, Cục Hải quan TP HCM đã đệ trình những khó khăn của doanh nghiệp lên Tổng cục và Bộ Tài chính để tìm hướng giải quyết. Mặc dù Tổng cục đã tháo gỡ bằng cách cho doanh nghiệp mang sản phẩm về kho nhưng phải được sự đồng ý giám sát của cơ quan quản lý chuyên ngành. Hiện nay cơ quan này lại chối trách nhiệm và viện lý do cơ quan cấp trên chưa có chỉ đạo nên hàng hóa vẫn chưa được giải quyết nhanh chóng.
Ông Đặng Thái Thiện, Phó phòng giám sát và quản lý hải quan, Cục Hải quan TP HCM cho biết, trước khi quy định có hiệu lực, Cục hải quan TP HCM dự đoán những khó khăn của doanh nghiệp nên đã có văn bản chỉ đạo các chi cục trước một tháng, đề nghị các đơn vị này thông báo rộng rãi đến doanh nghiệp.
Đối với điều 27, Hải quan đã tháo gỡ cho doanh nghiệp bằng cách cho các mặt hàng như ôtô, xe gắn máy, muối, phân bón, mặt hàng bảo quản có điều kiện đặc biệt được mang hàng về kho của doanh nghiệp nhưng phải có sự giám sát và kiểm tra của Hải quan. "Đáng nhẽ ra, việc giám sát này phải của cơ quan chuyên ngành nhưng do cơ quan chuyên ngành đùn đẩy trách nhiệm nên hải quan phải làm để giúp doanh nghiệp giải quyết hàng ùn ứ", ông Thiện nói.
Theo ông Thiện, hiện cơ quan hải quan đã tháo gỡ một bước thì cơ quan quản lý chuyên ngành cũng nên "năng động" giải quyết ách tắc ùn ứ tại cảng. Cơ quan này nên phân danh mục hàng hóa cần kiểm tra, xem mặt hàng nào nên kiểm tra trước khi thông quan hoặc nên kiểm tra trước khi đem ra bán trên thị trường để giảm bớt áp lực tại cảng. Mặt khác, cơ quan kiểm tra chuyên ngành nên xem xét rút ngắn quy trình kiểm tra, để tránh thời gian ra kết quả quá lâu làm ảnh hưởng đến việc thông quan.
Còn đối với điều 36, Cục Hải quan TP HCM cũng đã gửi toàn bộ kiến nghị của doanh nghiệp lên Tổng cục và Bộ Tài chính và đang chờ ý kiến chỉ đạo.

Chia sẻ với bạn về những người cán đích sớm

Các mảng tự doanh, môi giới, tư vấn trong 9 tháng đầu năm 2013 đều giảm so với cùng kỳ 2012. Tuy nhiên, nhờ quản lý tốt, tiết kiệm chi phí nên lợi nhuận trước thuế quý III/2013 của KLS đạt 24,4 tỷ đồng, 9 tháng đạt 118,56 tỷ đồng trong khi cùng kỳ 2012 lỗ hơn 41 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế quý III/2013 của KLS đạt hơn 20 tỷ đồng, còn 9 tháng lãi 97,6 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ 2012.
Trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn còn loay hoay với việc làm sao để sống sót và giảm lỗ, đã có những công ty hân hoan thông báo cán đích sớm.
Tính đến nay, các công ty mía đường đang nếm trải một mùa thu hoạch ngọt ngào, với hai công ty đứng dầu danh sách lãi vượt kế hoạch năm. Tuy nhiên, cũng chưa thể nói được nhiều vì chỉ cần đi cho đến hết năm, nếu ăn không nên, làm không ra lã gặm mòn lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thăng hoa vì lãi lớn
Tính đến thời điểm 20/10/2013, Công ty Mía đường Sơn La thông báo đã vượt kế hoạch hơn 400%. Lợi nhuận sau thuế riêng quý III của doanh nghiệp này đạt 8,26 tỷ đồng, tăng hơn 29% so với cùng kỳ.
Lũy kế 9 tháng đạt 49 tỷ đồng lợi nhuận, giảm 28% so với 9 tháng năm 2012. Tuy giá có sụt giảm, Mía đường Sơn La vẫn giữ được mức lợi nhuận trên cổ phiếu EPS là 7.282 đồng/cổ phiếu. Công ty đã vượt xa kế hoạch lợi nhuận 12 tỷ đồng được ĐHCĐ giao cho cả năm 2013.
Đường Ninh Hòa (NHS) xếp hàng thứ 2. Công ty này đã vượt 120% kế hoạch lợi nhuận năm sau 9 tháng. NHS đã có lợi nhuận sau thuế riêng quý III là 28,7 tỷ đồng, tăng 279% so với cùng kỳ, nâng mức lợi nhuận lũy kế 9 tháng đầu năm lên gần 83 tỷ đồng.
Đứng thứ ba là Công ty Cổ phần Bao bì dầu thực vật (VPK) với mức vượt 80% kế hoạch năm. Ngay từ cuối quý 2/2013, VPK đã vượt kế hoạch kinh doanh mà ĐHCĐ giao phó với hơn 26 tỷ đồng lợi nhuận. Sang quý III/2013, lại thêm một quý lãi 13,38 tỷ đồng, giảm nhẹ so với mức 14,2 tỷ đồng cùng kỳ nhưng cũng đã giúp VPK đạt lãi gần 40 tỷ đồng 9 tháng.
Cán đích hàng thứ tư với mức lợi nhuận vượt kế hoạch năm đạt 56,7% là Công ty cổ phần Phân phối Khí thấp áp Dầu khí Việt Nam (PVGasD – PGD). Quý 3 năm nay, PGD đạt doanh thu 1.721 tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái, lãi gộp 122,5 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lỗ gộp 186,6 tỷ đồng. Sau khi trang trải các chi phí, PGD báo lãi riêng quý III là 60 tỷ đồng và lãi lũy kế 9 tháng 202 tỷ đồng, tăng 29% so với 9 tháng đầu năm 2012.
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp khác cũng đã hân hoan báo lãi vượt kế hoạch đề ra. Theo đó, Công ty Nhiệt điện Bà Rịa đã đạt lợi nhuận 9 tháng là 80 tỷ đồng, vượt hơn 50% kế hoạch cả năm.
Tôn Hoa Sen đã có 9 tháng làm ăn tấn tới khi công ty này vừa công bố lợi nhuận sau thuế riêng tháng 9 đạt 8,6 tỷ đồng, nâng lũy kế 12 tháng lên 580 tỷ đồng, vượt 45% so với kế hoạch 400 tỷ đồng cả niên độ.
Tại Công ty Nhà Đà Nẵng, lũy kế 9 tháng đã có lãi 16,8 tỷ đồng, tăng 265% so với 9 tháng đầu năm 2012. Với kết quả đó, sau 9 tháng đầu năm nay, công ty này đã hoàn thành vượt mức kế hoạch năm với tỷ lệ 34,8%.
Casumia thì cho biết, lãi 9 tháng đạt gần 258 tỷ đồng, tăng 38% so với 9 tháng năm 2012. Với 341 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, Casumina đã vượt vượt kế hoạch 275 tỷ đồng mà ĐHCĐ giao phó năm 2013 với tỷ lệ 24%.
Trước đó, hồi kết thúc quý II, thị trường đã bất ngờ với các kỷ lục về lãi mà một số doanh nghiệp như Công ty cổ phần Vận tải dầu khí PVT hay Nhiệt điện Phả Lại đạt được.
Hồi hộp chờ “cất cánh”
Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác tuy báo lãi, nhưng vẫn còn phập phồng chờ cán đích lợi nhuận theo kế hoạch năm. Tại Imexpharm (IMP), sau 9 tháng công ty này đã thực hiện được 77,6% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Hiện tuy vẫn có lãi, nhưng kết quả kinh doanh đang trên đà giảm so với cùng kỳ năm trước. Kết quả quý III IMP báo lãi ròng 19,6 tỷ đồng, giảm 11,7% so với cùng kỳ 2012. Lũy kế 9 tháng, IMP lãi ròng 61,2 tỷ đồng, giảm 6,6% so với 9 tháng đầu năm 2012.
SSI có một kỳ kinh doanh khá thành công nhờ chi phí dự phòng chứng khoán thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý III, doanh thu của SSI đạt 182 tỷ đồng, giảm 6% so với cùng kỳ, trong đó doanh thu tự doanh giảm mạnh còn 55 tỷ đồng, còn doanh thu môi giới tăng 27%, doanh thu khác tăng 13%.
Có thêm gần 19 tỷ đồng lãi khác, SSI báo lãi sau thuế gần 53 tỷ đồng trong quý III, tăng mạnh 234% so với quý III/2012. Lũy kế 9 tháng đầu năm, lãi sau thuế của SSI đạt 252 tỷ đồng, giảm 27% so với cùng kỳ (do cùng kỳ công ty được hoàn nhập dự phòng 126 tỷ đồng).
Tại Công ty Chứng khoán Kim Long, lũy kế 9 tháng, tổng doanh thu của KLS đạt hơn 127 tỷ đồng, giảm 35% cùng kỳ năm trước do doanh thu khác (chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu) giảm 37% cùng kỳ năm trước, đạt 106 tỷ đồng.
Các mảng tự doanh, môi giới, tư vấn trong 9 tháng đầu năm 2013 đều giảm so với cùng kỳ 2012. Tuy nhiên, nhờ quản lý tốt, tiết kiệm chi phí nên lợi nhuận trước thuế quý III/2013 của KLS đạt 24,4 tỷ đồng, 9 tháng đạt 118,56 tỷ đồng trong khi cùng kỳ 2012 lỗ hơn 41 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế quý III/2013 của KLS đạt hơn 20 tỷ đồng, còn 9 tháng lãi 97,6 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ 2012.
Lãi nhiều vẫn lo
Tuy nhiên, tại nhiều doanh nghiệp, tuy có lãi lớn, cán đích sớm nhưng các nhà điều hành và quản lý vẫn đang nơm nớp như cá nằm trên thớt. Lý do mà họ lo lắng trước con số lãi lời của mình chính là vì chưa thật an tâm về sự phát triển bền vững.
Ví như nhìn vào 3 doanh nghiệp lãi khủng của thị trường với mức cán đích đến vài trăm phần trăm như Mía đường Sơn La, Công ty Vận tải dầu khí hay Nhiệt điện Phả Lại, có thể thấy mức lãi là do kế hoạch lợi nhuận năm do Hội đồng quản trị đặt ra tương đối thấp hay do doanh nghiệp gặp may nhờ hưởng lợi chênh lệch tỷ giá…
Những lý do lãi lời khác từ đa phần công ty báo lãi nhiều khi chỉ vì công ty cố gắng tiết kiệm chi phí, giảm bớt hàng tồn, tái cơ cấu triệt để hay được hưởng lợi từ giảm lãi suất vay tiền từ các ngân hàng, thị trường đột ngột tăng giá mặt hàng mà họ đang kinh doanh, lãi đến do bán bớt tài sản hay không còn phải trích nộp quỹ dự phòng rủi ro…
Chính vì thế, đến hết quý II hay quý III đã có lãi vượt kế hoạch cũng chưa thể nói được nhiều về những con số này. Bởi vì chỉ cần đi cho đến hết năm, với vài tháng ăn không nên, làm không ra thì ngay cả những công ty hàng đầu cũng có thể mau chóng lao đầu xuống vực vì lỗ lã gặm mòn lợi nhuận của doanh nghiệp.
Hơn nữa, thị trường đang cần các công ty lớn có lợi nhuận cao. Bởi vì cho dù cán đích vài trăm phần trăm mà chỉ là các công ty có quy mô nhỏ thì mức lợi nhuận mà họ đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung của thị trường sẽ rất khiêm tốn nếu so với trị giá tuyệt đối của việc tăng trưởng đôi khi chỉ vài chục phần trăm của các công ty lớn.
Và giờ mới chỉ là những ngày bắt đầu của việc các công ty niêm yết công bố thông tin kinh doanh, do đó, những ẩn số bất ngờ về lời lỗ vẫn còn ở phía trước, khi nền kinh tế vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi như mong muốn.